Latest Post

Phần lớn tinh trùng đều bị dị dạng, đàn ông vẫn có khả năng chăn gối và sinh con nếu chỉ có một tinh hoàn, tinh binh cũng thoái hóa theo tuổi tác... là những điều có thể bạn chưa biết.

Phần lớn tinh trùng là bất thường

Con người không giỏi trong việc sản xuất tinh trùng. Thực tế, hơn 90% lượng tinh trùng của bất cứ lần xuất tinh nào đều là dị hình. Như các loài động vật một vợ một chồng, tinh trùng của chúng ta không cần hoàn hảo vì nó thường không phải cạnh tranh chống lại tinh trùng của kẻ khác.

Thời gian sản xuất tinh trùng khá lâu

Mặc dầu tổng số lượng tinh trùng rất lớn, các nghiên cứu mới nhất cho thấy tinh trùng phải mất hơn hai tháng để thành hình.

Tinh trùng thiếu "mũ" khó thụ thai

Trong các xét nghiệm tinh dịch đồ ta thường thấy có phần kết luận như: tinh trùng bất thường dị dạng đầu nhỏ 99% không có acrosome... Acrosome là một cái mũ úp lên đầu tinh trùng - bản chất nó là một enzym có tác dụng hút giống như nam châm. Nhờ có cái mũ này mà tinh trùng mới định hướng và biết trứng ở đâu để tiến về phía đó và bám vào khi gặp trứng để thụ tinh. Vì thế khi thiếu hay không có acrosome thì tinh trùng sẽ bơi lung tung và cho dù có gặp trứng thì cũng sẽ bị trôi tuột đi mà không bám vào được, từ đó sự thụ tinh sẽ không diễn ra.

Chỉ có một tinh hoàn cũng không sao

Nếu người nào đó sinh ra thiếu một tinh hoàn hay bị mất do tai nạn, người đó vẫn có thể có con bình thường. Thực tế, tinh hoàn còn lại thường phát triển đủ để bù đắp cho bên bị mất. Lance Armstrong - một vận động viên đua xe đạp nhà nghề nổi tiếng thế giới đã có hai đứa con bằng thụ thai tự nhiên dù đã mất một tinh hoàn do ung thư.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu một bên tinh hoàn vỡ hay bệnh không được cắt bỏ và tự teo đi thì có thể ảnh hưởng đến tinh hoàn còn lại. Lý do được cho là tinh hoàn teo đã trở thành vật thể lạ (kháng nguyên), vì vậy cơ thể sẽ sinh ra kháng thể chống lại cả tinh hoàn teo và tinh hoàn lành.
10 điều bạn ít biết về tinh trùng
Ảnh minh họa: Alizul2.blogspot.com.

Tính nam của cha và con trai

Nhiễm sắc thể Y là nhiễm sắc thể tạo nên tính nam của người đàn ông. Mỗi nhiễm sắc thể khác trong cơ thể đều là một sự kết hợp giữa gene của mẹ và gene của bố nhưng nhiễm sắc thể Y không có sự hòa trộn kiểu đó. Vì vậy, một nhiễm sắc thể Y ở nam giới là đúc khuôn từ nhiễm sắc thể Y từ bố và và cứ như vậy.

Tinh trùng cũng thoái hóa

Phụ nữ sinh ra đã có đầy đủ số trứng mà họ sẽ có và ở độ tuổi trung niên, chúng đã hoàn thành khả năng sinh sản. Nam giới lại khác. Tinh trùng được sản xuất liên tục. Và vì vậy, chất lượng của tinh trùng cũng thoái hóa một chút theo tuổi tác.

Kẻ thù giấu mặt

Được tạo ra muộn trong quá trình phát triển của con người (tới khi dậy thì mới có), các tế bào tinh trùng đáng lẽ cũng có thể bị tấn công bởi chính hệ thống miễn dịch của mình, do chúng không được nhận dạng. May mắn là, có những tế bào bao quanh và bảo vệ tinh trùng, vì vậy chúng không bị tấn công.

Tinh trùng chỉ là vật trung gian vận chuyển

Chúng ta thường nghĩ mỗi cá thể là sự kết hợp của trứng với tinh trùng mà hình thành. Nhưng tinh trùng không có vai trò quan trọng như vậy. Trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, các nhà nghiên cứu đã làm một thử nghiệm, giết chết tinh trùng rồi bơm tinh trùng đã chết vào trứng. Kết quả, trứng vẫn được thụ tinh. Như vậy có thể thấy ADN bên trong tinh trùng là thứ duy nhất trứng cần.

Nhà máy sản xuất tinh trùng cần làm mát

Vì tinh trùng rất yếu ớt, các tinh hoàn cần duy trì nhiệt độ mát hơn khoảng hai độ C so với phần còn lại của cơ thể. Đó là lý do tinh hoàn được treo ở bên ngoài cơ thể. Khi tinh hoàn co lại trong thời tiết lạnh, nó chỉ là muốn nhận được nhiều hơi ấm từ cơ thể hơn.

Nếu tất cả tinh trùng trong một lần xuất tinh đều được thụ tinh, có thể tạo ra dân số một đất nước

Mỗi lần xuất tinh chỉ có khoảng một nửa thìa tinh dịch. Như vậy là không nhiều, đúng không bạn? Nhưng thưc sự, có 200 triệu tinh trùng trong mỗi lần xuất tinh và tất cả số này đều cạnh tranh với nhau để thụ tinh với trứng. Nếu tất cả số tinh trùng đó đều được sử dụng, chúng sẽ tạo thành 2/3 dân số của Mỹ.
Theo VNE

Bạn cảm thấy mệt mỏi? Bạn có thể gục đầu xuống bàn mà ngủ ngay lập tức? Tối qua bạn đi ngủ muộn, rồi không ngủ được mà thức dậy rất sớm? Tình hình đó có thể tiếp diễn lại tối nay trừ phi… 
Đây là tình trạng phổ biến của những người Hoa Kỳ mắc chứng thiếu ngủ. Họ phải cần đến thuốc ngủ hoặc các biện pháp khác để điều trị chứng mất ngủ, nghiến răng, tác động do bay lệch múi giờ, chân tay luôn động đậy, ngáy ngủ, mộng du và các hiện tượng khác nữa.

Thực tế lại tương đối khác biệt.

Ví dụ, mất ngủ là chứng rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất nhưng các rối loạn về giấc ngủ gây bức bối này chỉ cản trở 10% các hoạt động thường ngày của chúng ta, theo Viện sức khỏe thế giới. Trong khoảng một nửa số người mắc bệnh, vấn đề ẩn giấc thực sự phía sau là do bị ốm (thường là về tinh thần) hay các tác động của chất nào đó như cà phê hoặc dược phẩm.

Dưới đây là 5 phát hiện mới có thể giúp bạn ngon giấc hơn.

1. Chúng ta ngủ ngon hơn là chúng ta nghĩ 
Đối với hầu hết mọi người, thiếu ngủ nghe như chuyện hoang đường. Chúng ta không phải là thây ma. Quỹ giấc ngủ quốc gia phi lợi nhuận (tiếp nhận nguồn tài chính từ ngành công nghiệp hỗ trợ giấc ngủ, bao gồm các công ty dược phẩm sản xuất thuốc ngủ) cho biết trung bình người dân Hoa Kỳ ngủ 7 tiếng một đêm nhưng thế vẫn chưa đủ. Tuy vậy, một nghiên cứu của đại học Maryland tiến hành vào đầu năm cho thấy chúng ta thường ngủ 9 tiếng và như thế là thích hợp. Nghiên cứu phát hiện thực ra, người Mỹ ngày nay cũng ngủ nhiều như 40 năm trước.

2. Chúng ta ngủ ít hơn khi già đi 
Chúng ta sẽ chết mà không ngủ. Các dữ liệu thu được còn sơ sài nhưng nghiên cứu cho rằng đó là thời điểm chúng ta khôi phục các quá trình sinh học có ý nghĩa sống còn cũng như phân loại và gắn kết trí nhớ. Năm ngoái, Tổ chức y tế thế giới khẳng định rằng làm ca đêm có thể dẫn đến rối loạn giấc ngủ đồng thời là nhân tố có khả năng gây ung thư cho con người. Nghiên cứu mới đây nhất cho rằng chúng ta cần ít hơn nhân tố này khi chúng ta già đi.
Chúng ta ngủ theo hai giai đoạn. Ngủ vào ban đêm thật ngon rồi chợp mắt ban ngày nếu cần thiết. (Ảnh: heartofhealing / smart-kit)
3. Chúng ta có thể ngủ như trẻ con (hay Thomas Edison)

Ngủ nhiều giấc ngắn vào ban đêm hơn là ngủ một giấc dài cũng là một lựa chọn. Cái gọi là ngủ nhiều giai đoạn thường gặp ở trẻ con, người già và các loài động vật khác (Thomas Edison cũng ngủ theo cách này). Đối với số còn lại trong chúng ta, ngủ ban đêm thật ngon bao giờ cũng khỏe mạnh và thực tế hơn, sau đó thì chợp mắt vào ban ngày nếu cần thiết. EEG chứng minh rằng chúng ta ngủ theo hai giai đoạn với hai thời điểm giảm độ tính táo – một vào ban đêm và một vào ban ngày. Nên có lẽ cũng cần bàn về vấn đề xây phòng ngủ ngày giống như căn phòng dành cho thành viên tàu Phoenix của NASA. 

4. Động vật có nhiều thói quen ngủ 
Con lười 3 ngón ngủ 9,6 tiếng ban đêm. Nhưng cá voi con mới sinh và cá voi sát thủ có thể kiêng ngủ suốt cả tháng đầu tiên trong cuộc đời của chúng. Tuy nhiên, hình thức mạo hiểm thứ hai không thích hợp với chúng ta. Chúng ta sẽ trở nêncáu bẳn, mất khả năng tập trung cũng như khả năng đưa ra quyết định ngay khi chỉ mất ngủ một đêm. Tình trạng này có thể dẫn đến nhiều tai nạn xe cộ nghiêm trọng cũng như trong sử dụng máy móc. 

5. Quen với việc mệt mỏi mà ngủ gục trên bàn 
Điều quan trọng nhất là có được giấc ngủ ngon hoàn toàn nằm trong tầm với của chúng ta nếu chúng ta làm theo các chỉ dẫn phổ biến dưới đây: 
• Tạo thói quen đi ngủ vào một giờ cố định ban đêm. 
• Dành đủ thời gian để ngủ 7 tiếng. 
• Trong vòng 4 đến 6 tiếng trước khi ngủ, bạn nên tránh uống cà phê, ăn thức ăn cay, khó tiêu, rượu và các loại dược phẩm tùy ý có thể khiến bạn khó ngủ. 
• Tạo thói quen trước giờ đi ngủ để có thể thư giãn trước khi lên giường. 
• Tắt ánh sáng hay tiếng ồn gây sao lãng. 
• Không nên xem tivi, đọc sách báo hay ăn lúc đi ngủ. Chỉ nên ngủ một mạch hoặc sinh hoạt tình dục lúc đi ngủ. 
• Tập thể dục thường xuyên nhưng không nên tập trước khi đi ngủ

Trong khoảng 4 tỉ năm, thiên hà Milky Way sẽ sáp nhập với thiên hà Andromeda. Kết quả của quá trình hợp nhất sẽ là một thiên hà elip được gọi là "Milkomeda".

1. Nhà triết học thế kỉ 18, Immanuel Kant, là một trong những người đầu tiên đưa ra lí thuyết cho rằng thiên hà Milky Way (Dải Ngân Hà hay Thiên Hà của chúng ta) không phải là thiên hà duy nhất trong vũ trụ. Ông đã đặt ra thuật ngữ“island universe” (những hòn đảo vũ trụ) để mô tả một thiên hà.
2. Các nhà thiên văn ước tính có khoảng 100 tỉ thiên hà trong vũ trụ có thể quan sát được.
3. Thuật ngữ tiếng Anh Milky Way được ứng dụng sớm nhất trong bài thơ "The House of Fame" của Geoffrey Chaucer trong thế kỉ 14.
4. Do vũ trụ mở rộng, tất cả các thiên hà khác đang lùi xa Thiên Hà của chúng ta. Các thiên hà xa hơn kể từ thiên hà Milky Way đang có tốc độ di chuyển nhanh hơn so với những thiên hà lân cận.
Những điều bạn chưa biết về thiên hà
5. Một số thiên hà đang cách xa thiên hà Milky Way có hình dạng elip, giống như quả bóng bầu dục, hoặc có dạng đĩa dẹt và phẳng với các cánh tay giống như thiên hà Milky Way. Thiên hà cũng có hình dạng bất thường, trong đó bao gồm nhiều thiên hà lùn. Những thiên hà nhỏ nhất trong vũ trụ chỉ chứa từ một vài trăm đến vài ngàn sao (so với 100 tỉ ngôi sao trong thiên hà Milky Way).
6. Chúng ta sẽ thường tìm thấy thiên hà lùn xung quanh những thiên hà lớn hơn. Các thiên hà lùn thường xuyên bị mất sao bởi thiên hà láng giềng lớn hơn thông qua lực hấp dẫn. Những luồng sao trên bầu trời chính là một phần của các thiên hà lùn bị xé toạc. Chúng ta không thể nhìn thấy nó bằng mắt thường.
7. Chúng ta cũng không thể nhìn thấy lỗ đen khổng lồ ẩn giấu ở trung tâm thiên hà Milky Way, mặc dù nhìn đúng hướng từ chòm sao Nhân Mã. Hầu hết các thiên hà đều có một lỗ đen ở trung tâm, và nhà thiên văn học đã tính toán khối lượng nhất quán của nó cỡ khoảng 1/1000 khối lượng thiên hà mẹ.
8. Hai trong số các thiên hà gần nhất với thiên hà Milky Way là Small Magellanic Cloud và Large Magellanic Cloud có thể không có lỗ đen, hoặc vì cả hai đều có khối lượng thấp nên lỗ đen của chúng quá nhỏ, rất khó phát hiện.
9. Mỗi thiên hà đều chứa bụi trong không gian giữa các sao, bụi làm cho ánh sáng trông đỏ hơn bản thân nó khi quan sát trực quan, điều này có thể gây khó khăn cho các nhà thiên văn nghiên cứu đặc điểm của các ngôi sao.
10. Dải Ngân Hà quay với vận tốc 250km/s và hoàn thành một vòng mất 200 triệu năm. Các thiên hà đang quay nhanh hơn so với dự đoán dựa trên lực hấp dẫn của các ngôi sao. Các nhà thiên văn suy luận rằng lực hấp dẫn bổ sung đến từ vật chất tối, một loại vật chất mà không phát ra hoặc phản xạ ánh sáng.
11. Hầu hết không gian trong thiên hà là trống rỗng, nếu các ngôi sao trong thiên hà có kích thước là quả cam, thì chúng sẽ cách nhau 4.800km.
12. Nếu các thiên hà có kích cỡ bằng quả táo, thì khoảng cách giữa các thiên hà lân cận là chỉ một vài mét. Những thiên hà tương đối gần nhau đôi khi là các thiên hà hợp nhất. 

Đậu phụ tốt hay không tốt cho sức khỏe của bạn còn tùy thuộc vào hàm lượng bạn tiêu thụ.


Đậu phụ là một trong những loại thực phẩm đã khiến cho nhiều nhà khoa học tranh luận vì có các quan điểm khác nhau. Một số người ủng hộ cho rằng đậu phụ làm từ đậu nành nên lành mạnh và một trong những nguồn tốt nhất của protein. Một số người khác lại cho rằng đậu phụ là một thực phẩm chế biến nên không có giá trị dinh dưỡng như thực phẩm tươi sống.
7 điều bạn cần biết về đậu phụ
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng đậu phụ là thực phẩm có thể cung cấp protein cho những người ăn chay. Đậu phụ tốt hay không tốt cho sức khỏe của bạn còn tùy thuộc vào hàm lượng bạn tiêu thụ. Nếu ăn quá nhiều đậu phụ cũng có thể dẫn đến sự mất cân bằng nội tiết tố trong cơ thể.
Hãy tìm hiểu thêm về đậu phụ theo những thông tin dưới đây nhé:

1. Đậu phụ là thực phẩm chế biến

Vì là thực phẩm được chế biến từ đậu nành nên đậu phụ có chứa chất bảo quản và được sản xuất nhân tạo. Nó không mang đặc tính như các thực phẩm tự nhiên nguyên chất.
7 điều bạn cần biết về đậu phụ

2. Không nên ăn nhiều đậu phụ một lúc

Đậu phụ cung cấp protein nên nó rất thích hợp với những người ăn chay hoặc muốn giảm cân. Nhưng bạn không nên ăn nhiều đậu phụ một lúc vì nó có thể dẫn đến đầy bụng, khó tiêu.

3. Ăn nhiều đậu phụ phá vỡ nội tiết tố nam

Đậu nành có chứa isoflavone, một hợp chất làm tăng lượng estrogen trong cơ thể. Nếu bạn là nam giới, tiêu thụ nhiều sản phẩm từ đậu nành bao gồm cả đậu phụ có thể phá vỡ sự cân bằng của các hormone sinh sản của bạn.
7 điều bạn cần biết về đậu phụ

4. Đậu phụ có lợi cho thời kì mãn kinh

Đối với phụ nữ, lượng estrogen tăng sẽ giúp họ dễ dàng vượt qua các triệu chứng của thời kì mãn kinh hoặc khắc phục sự mất cân bằng nội tiết tố.

5. Đậu phụ làm tăng nguy cơ ung thư

Đậu phụ chứa các chất bảo quản không lành mạnh và có ảnh hưởng đến nội tiết tố nên có thể làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
7 điều bạn cần biết về đậu phụ

6. Đậu phụ có chứa vitamin D

Trong số các thực phẩm chay thì đậu nành chứa nhiều vitamin D nhất, vậy nên khi được chế biến thành đậu phụ, lượng vitamin D vẫn được giữ lại đáng kể.

7. Đậu phụ gây ra các vấn đề về tuyến giáp

Những người có vấn đề ở tuyến giáp không nên ăn nhiều đậu phụ hoặc các sản phẩm đậu nành khác vì nó tác động không nhỏ đến sự cân bằng nội tiết trong cơ thể.
Theo Trí Thức Trẻ

IQ có thể thay đổi theo thời gian, cũng không quyết định khả năng thành công hay thất bại của mỗi cá nhân là những điều không phải ai cũng biết về chỉ số thông minh con người.

1. Ý nghĩa của chỉ số thông minh IQ

Chỉ số thông minh hay IQ là khái niệm được các nhà tâm lý học sử dụng để gọi trí thông minh lỏng và trí thông minh kết tinh. Hay nói một cách đơn giản, các bài kiểm tra IQ là phương pháp để đánh giá khả năng nhận thức và giải quyết vấn đề của con người.
Có nhiều hình thức thực hiện các bài kiểm tra IQ khác nhau, tuy nhiên hầu hết trong số đó đều hướng tới mục tiêu phân tích khả năng ngôn ngữ, toán học, xử lý hình ảnh cũng như trí nhớ và tốc độ xử lý thông tin của mỗi người. Kết quả đánh giá các khả năng này cùng với một số bài kiểm tra phụ sẽ được kết hợp và tổng kết thành chỉ số IQ.
Lisa Van Gemert, một chuyên gia phân tích khả năng con người, cho biết những người có chỉ số IQ cao thường có khả năng thao tác, xử lý và phân tích thông tin ở mức độ chuyên sâu hơn và tốc độ nhanh hơn so với những người khác. Chỉ số IQ trung bình của con người là 100. Những người có chỉ số IQ thấp hơn hoặc cao hơn nhiều so với chỉ số trung bình được coi là những trường hợp ngoại lai.
Những điều chưa biết về chỉ số IQ
Nhà bác học Albert Einstein có chỉ số IQ 160. (Ảnh: lifehack.org)

2. Chỉ số IQ không nói lên tất cả

Chỉ số thông minh IQ không đánh giá trí thông minh thực tế của con người hay đánh giá khả năng thực hiện các công việc trong cuộc sống. Theo Richard Nisbett, một giáo sư tâm lý tại Đại học Michigan, Mỹ, IQ không đánh giá được tính sáng tạo hay sự tò mò của con người.
Chỉ số IQ cũng không thể được áp dụng như một tiêu chuẩn để các giáo viên và phụ huynh đánh giá cảm xúc của những đứa trẻ. Theo Van Gemert, sẽ là một sai lầm nếu như nhìn nhận rằng những đứa trẻ có chỉ số IQ cao chẳng có điều gì khác tốt hơn ngoài một bộ não siêu việt. Chỉ số IQ chỉ là một phần trong những đặc điểm hình thành con người. Nó cũng giống như đôi mắt xanh, đôi chân lớn hay các đặc điểm khác ở tùy từng cá nhân.

3. Chỉ số IQ có thể thay đổi theo thời gian

Có rất nhiều yếu tố khiến chỉ số IQ của con người thay đổi theo thời gian như tình trạng căng thẳng hay vấn đề dinh dưỡng. Nghiên cứu của giáo sư Nisbett cho thấy những đứa trẻ sinh sống ở điều kiện kinh tế xã hội thấp nhưng được nhận nuôi và sinh sống trong các gia đình trung lưu sẽ có thể tăng chỉ số IQ thêm 15-20 điểm.
Theo Nisbett, tính di truyền không tác động nhiều đến chỉ số IQ như nhiều người vẫn nghĩ. Các yếu tố môi trường mới có khả năng tác động mạnh đến chỉ số IQ của con người.
Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học đã kiểm tra chỉ số thông minh của 33 người ở độ tuổi thiếu niên và kiểm tra lặp lại 4 năm sau đó. Trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ số IQ của một số người đã thay đổi hơn 20 điểm.
Những đứa trẻ 3, 4 tuổi có thể được coi là thiên tài nếu chúng đọc sách dành cho học sinh lớn tuổi hay nói thông thạo một thứ tiếng khác. Tuy nhiên, không ai có thể dám chắc trí thông minh từ thuở nhỏ sẽ giúp chúng vượt trội hơn so với những đứa trẻ cùng lứa tuổi trong những giai đoạn phát triển khác nhau của cuộc đời.

4. Thế hệ sau thông minh hơn các thế hệ trước

Những điều chưa biết về chỉ số IQ
Alexis Martin, 3 tuổi, có thể đọc sách dành cho học sinh lớp 5 và nói tiếng Tây Ban Nha thành thạo. Với chỉ số IQ hơn 160, Martin mới trở thành thành viên của Mensa, tổ chức những người có chỉ số IQ cao nhất thế giới. (Ảnh: CNN)
Kể từ khi chỉ số IQ được tiêu chuẩn hóa lần đầu tiên vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mức tăng ổn định về chỉ số IQ trong mỗi thế hệ sau. Một đứa trẻ 10 tuổi ngày nay sẽ có chỉ số IQ cao hơn một đứa trẻ 10 tuổi sống ở năm 1954.
Điều này không có nghĩa rằng đứa trẻ có IQ cao hơn thì có bộ não lớn hơn những thế hệ trước mà chỉ đơn giản là chúng đã cải thiện hơn trong các khả năng tư duy, phân tích và giải quyết vấn đề và sử dụng các khả năng đó trong nhiều trường hợp giả định khác nhau.
Sự thay đổi về phương pháp giáo dục, công việc của con người ở mỗi giai đoạn cũng là những nhân tố buộc mỗi người phải vận động tư duy để giải những bài toán khó hay và hình thành các phương pháp giải quyết vấn đề phức tạp.
Sức khỏe cũng là yếu tố có mức độ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chỉ số IQ. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng sớm có thể dự báo được chỉ số IQ trung bình của mỗi quốc gia. Số lượng các bệnh truyền nhiễm trên thế giới giảm sẽ góp phần làm tăng chỉ số IQ ở các thế hệ tiếp theo trên phạm vi tổng thể.

5. Chỉ số IQ không quyết định thành công hay thất bại

Theo Van Gemert, chỉ số IQ thấp hay cao không phải là yếu tố xác định khả năng thất bại hay thành công của mỗi người. Những thói quen tốt, sự kiên trì và thái độ làm việc nghiêm túc cũng quan trọng không kém trí thông minh bẩm sinh. Thậm chí, nếu không tự phát triển các phẩm chất và năng lực bản thân, thì trí thông minh vốn có của mỗi người sẽ trở nên lãng phí.
Trên thực tế, rất nhiều học sinh và sinh viên có chỉ số IQ cao nhưng không thể thành công bởi họ thiếu sự tò mò, tính sáng tạo và khả năng để hòa hợp cùng những người khác.
Theo VNE

Chim ruồi là một họ chim nhỏ, có số lượng loài tương đối lớn, màu sắc lông sặc sỡ và hút mật hoa.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Theo các chuyên gia, có khoảng 338 loài chim ruồi được biết đến trên thế giới. Chim ruồi và chim én tách ra từ khoảng 42 triệu năm trước, ở các khu vực thuộc châu Âu và châu Á ngày nay.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Tổ tiên của chim ruồi ngày nay từng cư trú và phát triển ở Nam Mỹ, đặc biệt là ở dãy núi Andes, cách đây khoảng 22 triệu năm. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, khoảng 140 loài chim ruồi khác nhau đang sinh sống ở khu vực này.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Hầu hết các loài chim sẽ tạo lực nâng khi chúng đập cánh xuống. Trong khi đó, chim ruồi tạo lực nâng khi bay lên bằng cách đảo cánh. Các chuyển động đánh của chim ruồi diễn ra rất nhanh và tạo ra âm thanh khá ồn ào. (Ảnh: discovery)
Những điều chưa biết về chim ruồi
Màu sắc độc đáo của chim ruồi sẽ khác nhau tùy theo từng loài. Ở một số loài, ánh sáng mặt trời phản chiếu vào lớp lông trên cùng tạo ra bước sóng ánh sáng khác nhau, khiến người quan sát nhìn thấy màu sắc lông của chúng có nhiều mức độ khác nhau.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Chim ruồi ong được coi là loài chim nhỏ nhất trên thế giới. Chúng có kích thước nhỏ, cơ thể nhiều màu sắc và tiếng kêu vo ve khi vỗ cánh. Loài chim này định cư ở Bắc Mỹ từ cách đây khoảng 5 triệu năm.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Mọi loài chim ruồi đều ăn mật hoa. Cặp mỏ dài và lưỡi dài là những đặc điểm giúp chúng dễ dàng hút mật hoa.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Vào mùa sinh sản, chim đực thu hút con cái bằng cách khoe phần ngực, nơi có phần lông sặc sỡ nhất, và di chuyển phần đầu từ bên này sang bên kia để lớp lông được phản chiếu ánh sáng bắt mắt. Chim đực cũng có thể biểu diễn trong lúc bay lượn để thể hiện sức mạnh và khả năng kiểm soát trước mặt con cái.
Những điều chưa biết về chim ruồi
Tổ chim ruồi có kích thước khá nhỏ, được làm từ lá cây, mạnh nhện, cành cây và các vật liệu khác. Các tổ chim được xây dựng với cấu trúc và màu sắc sự tương đồng với môi trường xung quanh và được bảo vệ rất kỹ.
Theo VNE

Trong khoảng 4 tỉ năm, thiên hà Milky Way sẽ sáp nhập với thiên hà Andromeda. Kết quả của quá trình hợp nhất sẽ là một thiên hà elip được gọi là "Milkomeda".

1. Nhà triết học thế kỉ 18, Immanuel Kant, là một trong những người đầu tiên đưa ra lí thuyết cho rằng thiên hà Milky Way (Dải Ngân Hà hay Thiên Hà của chúng ta) không phải là thiên hà duy nhất trong vũ trụ. Ông đã đặt ra thuật ngữ“island universe” (những hòn đảo vũ trụ) để mô tả một thiên hà.
2. Các nhà thiên văn ước tính có khoảng 100 tỉ thiên hà trong vũ trụ có thể quan sát được.
3. Thuật ngữ tiếng Anh Milky Way được ứng dụng sớm nhất trong bài thơ "The House of Fame" của Geoffrey Chaucer trong thế kỉ 14.
4. Do vũ trụ mở rộng, tất cả các thiên hà khác đang lùi xa Thiên Hà của chúng ta. Các thiên hà xa hơn kể từ thiên hà Milky Way đang có tốc độ di chuyển nhanh hơn so với những thiên hà lân cận.
Những điều bạn chưa biết về thiên hà
5. Một số thiên hà đang cách xa thiên hà Milky Way có hình dạng elip, giống như quả bóng bầu dục, hoặc có dạng đĩa dẹt và phẳng với các cánh tay giống như thiên hà Milky Way. Thiên hà cũng có hình dạng bất thường, trong đó bao gồm nhiều thiên hà lùn. Những thiên hà nhỏ nhất trong vũ trụ chỉ chứa từ một vài trăm đến vài ngàn sao (so với 100 tỉ ngôi sao trong thiên hà Milky Way).
6. Chúng ta sẽ thường tìm thấy thiên hà lùn xung quanh những thiên hà lớn hơn. Các thiên hà lùn thường xuyên bị mất sao bởi thiên hà láng giềng lớn hơn thông qua lực hấp dẫn. Những luồng sao trên bầu trời chính là một phần của các thiên hà lùn bị xé toạc. Chúng ta không thể nhìn thấy nó bằng mắt thường.
7. Chúng ta cũng không thể nhìn thấy lỗ đen khổng lồ ẩn giấu ở trung tâm thiên hà Milky Way, mặc dù nhìn đúng hướng từ chòm sao Nhân Mã. Hầu hết các thiên hà đều có một lỗ đen ở trung tâm, và nhà thiên văn học đã tính toán khối lượng nhất quán của nó cỡ khoảng 1/1000 khối lượng thiên hà mẹ.
8. Hai trong số các thiên hà gần nhất với thiên hà Milky Way là Small Magellanic Cloud và Large Magellanic Cloud có thể không có lỗ đen, hoặc vì cả hai đều có khối lượng thấp nên lỗ đen của chúng quá nhỏ, rất khó phát hiện.
9. Mỗi thiên hà đều chứa bụi trong không gian giữa các sao, bụi làm cho ánh sáng trông đỏ hơn bản thân nó khi quan sát trực quan, điều này có thể gây khó khăn cho các nhà thiên văn nghiên cứu đặc điểm của các ngôi sao.
10. Dải Ngân Hà quay với vận tốc 250km/s và hoàn thành một vòng mất 200 triệu năm. Các thiên hà đang quay nhanh hơn so với dự đoán dựa trên lực hấp dẫn của các ngôi sao. Các nhà thiên văn suy luận rằng lực hấp dẫn bổ sung đến từ vật chất tối, một loại vật chất mà không phát ra hoặc phản xạ ánh sáng.
11. Hầu hết không gian trong thiên hà là trống rỗng, nếu các ngôi sao trong thiên hà có kích thước là quả cam, thì chúng sẽ cách nhau 4.800km.
12. Nếu các thiên hà có kích cỡ bằng quả táo, thì khoảng cách giữa các thiên hà lân cận là chỉ một vài mét. Những thiên hà tương đối gần nhau đôi khi là các thiên hà hợp nhất. 
Theo TTCN

Gia Đình

[Gia-dinh][fbig1]

Sức khỏe

[Suc-khoe][fbig2]

Khoa học - Công nghệ

[Khoa-hoc][Cong-nghe][column1]

Làm đẹp

[Lam-dep][hot]

Thú vị

[Thu-vi][gallery2]

Động vật

[Dong-vat][column1]

Du lịch

[Du-lich][gallery3]

Author Name

{facebook#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {twitter#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {google#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {pinterest#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {youtube#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {instagram#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.